Theo các nhà nghiên cứu, trong cuộc đời của mình Bác Hồ đã có khoảng 60 bức thư, bài nói chuyện đề cập đến thương binh, tử sĩ và thân nhân gia đình họ. Ngay từ năm 1941, trong bài diễn ca “Mười chính sách” của Việt Minh, Người đã đề cập đến việc ghi nhận công lao của “Binh lính giữ nước có công/ Được dân trọng đãi, hết lòng kính yêu” và năm 1946, trong Quốc lệnh với 10 điều thưởng và 10 điều phạt có qui định “Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng”.
Tình cảm của Bác Hồ đối với thương binh, liệt sĩ là biểu hiện cụ thể của truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”; đồng thời, là tình cảm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước ta đối với những người đã cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc.
Nhằm động viên các gia đình có người đã hy sinh, ngày 2/10/1945, Bác Hồ đến Nhà thờ Lớn (Hà Nội) làm lễ cầu hồn cho các chiến sĩ hy sinh ở miền Nam và trong phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 20/11/1945, Người đề nghị Chính phủ ra Sắc lệnh truy tặng 5 liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc tại quận Cái Răng, Cần Thơ vào ngày 12/11/1945.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm tượng đài liệt sỹ tại Nghĩa trang Mai Dịch ngày 2/9/1955.
Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, Bác Hồ đã mong muốn hằng năm có một ngày dành cho thương binh liệt sỹ. Theo đề nghị của Bác, giữa tháng 6/1947, hội nghị các ngành của Trung ương và đại diện các địa phương họp tại Đại Từ, Thái Nguyên đã nhất trí lấy ngày 27/7 hằng năm là Ngày Thương binh toàn quốc và đến năm 1955, đổi thành Ngày thương binh liệt sỹ.
Bác Hồ nói: “Ngày 27/7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa, bác ái đối với thương binh và gia đình liệt sĩ”. Trong bức thư gửi Bác sĩ Vũ Đình Tụng (1/1947), Bác viết những lời thống thiết: “Tôi được báo cáo rằng, con giai ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam... Đồng bào và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ”.
Bác Hồ nêu rõ sự đền ơn, đáp nghĩa thương binh, gia đình liệt sĩ cần phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể, bằng sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần do Nhà nước và nhân dân cùng thực hiện. Khi giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ thì “nên coi đó là nghĩa vụ của nhân dân. Không nên coi đó là việc làm phúc”.
Trong Ngày Thương binh toàn quốc tổ chức lần đầu tiên ở Việt Bắc (27/7/1947), tại cuộc mít tinh kỉ niệm có mặt 2.000 người tham dự, Ban Tổ chức đã đọc bức thư của Bác Hồ gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức, nói rõ ý nghĩa của ngày kỷ niệm và kêu gọi mọi người có hành động thiết thực giúp đỡ thương binh: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm đau, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.
Mỗi dịp kỷ niệm ngày 27/7, Bác Hồ lại gửi thư tới Bộ trưởng Bộ Thương binh - Cựu binh (tiền thân của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sau này) nhắc nhở việc đẩy mạnh công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và nhiều lần Bác đã gửi tặng một tháng lương của mình cùng quần áo các đoàn thể tặng Bác để làm quà tặng cho các thương binh và gia đình liệt sĩ tiêu biểu.
Trong “Thư gửi cụ Bộ trưởng Bộ Thương binh - Cựu binh”, ngày 27/7/1954, Bác biểu dương và nhắc nhở các đoàn thể ở các xã: “Nhiều nơi đã hăng hái đón thương binh, bệnh binh về xã, giúp đỡ anh em làm ăn và đã chiếu cố chu đáo các gia đình liệt sĩ. Thế là rất tốt. Đó là một cách để tỏ lòng nhân dân biết ơn những chiến sĩ đã có công giữ nước, giữ làng. Song, việc giúp đỡ ấy cần phải thiết thực, cần có tổ chức và mọi người trong xã đều cần tùy theo khả năng mà tham gia”.
“Thư gửi cụ Bộ trưởng Bộ Thương binh - Cựu binh” này cũng nhắc nhở việc đẩy mạnh hơn nữa công tác thương binh liệt sỹ và căn dặn: “Các thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ cần phải biết ơn sự săn sóc của đồng bào; cần phải cố gắng tăng gia sản xuất, tự lực cánh sinh, tùy theo khả năng mà tham gia các công tác trong xã, chớ nên yêu cầu quá đáng, ra vẻ “công thần”. Bác động viên các thương binh: “Tàn mà không phế”, phấn đấu trở thành những “Công dân kiểu mẫu”, động viên các gia đình thương binh liệt sỹ phấn đấu để trở thành các “Gia đình cách mạng gương mẫu”.
Đặc biệt, trên Báo Nhân Dân số 273, ngày 26/11/1954 có bài viết “Nhờ ai ta có hòa bình”, ký tên C.B, về sau được xác định là bài viết của Bác Hồ, có nội dung như sau:
“Chính nghĩa thắng lợi, hòa bình trở lại, là nhờ toàn dân ta đoàn kết, toàn quân ta anh dũng. Đồng thời nhờ lực lượng hòa bình thế giới ủng hộ ta. Nhưng cũng nhờ những chiến sĩ anh hùng đã vui lòng chết để cho Tổ quốc sống, nhân dân sống, như:
- Đồng chí Đàn - đã cúi lưng làm giá súng để cho đồng đội bắn chặn địch lại, đến chết vẫn cứ nằm yên.
- Đồng chí Giót - nhét mình vào lỗ châu mai, làm cho địch không bắn ra được để bộ đội ta tiến lên chiếm đồn giặc.
- Đồng chí Trọng - khi bộ đội ta kéo súng to leo dốc, một khẩu súng trượt xuống, đồng chí Trọng gieo mình dưới bánh xe để chặn súng lại.
Và trăm nghìn anh hùng, liệt sĩ khác đã ung dung làm những việc “Trời đất phải kinh, quỷ thần phải khóc”. Người tuy chết, nhưng tiếng thơm lưu truyền mãi với non sông.
Chúng ta cần ghi chép và thường nhắc lại những sự tích ấy, để giáo dục nhân dân ta chịu đựng gian khổ, vượt mọi khó khăn, quyết tâm làm trọn nhiệm vụ xây dựng lại nước nhà. Để giáo dục thanh niên ta rèn luyện một chí khí kiên quyết quật cường, một tâm lý quả cảm xung phong, tin tưởng vào tương lai của Tổ quốc, vào lực lượng của nhân dân, hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung của dân tộc, ra sức đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn nước Việt Nam ta. Vậy có thơ rằng:
Nhờ ai ta có hòa bình?
Nhờ người chiến sĩ quên mình vì dân.
C.B”
Tiếp đó, chiều ngày 31/12/1954, Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đã tới đặt vòng hoa viếng các liệt sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc tại Đài liệt sĩ Hà Nội. Tại lễ viếng, đồng chí Phạm Văn Đồng đã thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn từ sau đây.
“Hỡi các liệt sĩ,
Ngày mai là năm mới, là ngày đồng bào và bộ đội mừng Chính phủ về Thủ đô. Trong lúc cả nước vui mừng, thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Bác thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sĩ. Các liệt sĩ đã hy sinh, nhưng công trạng to lớn của các liệt sĩ đã ghi sâu vào lòng dạ của toàn dân và non sông đất nước. Các liệt sĩ đã hy sinh, nhưng chí khí dũng cảm của các liệt sĩ đã thấm nhuần vào tâm hồn của toàn quân và dân ta trong cuộc kiên quyết đấu tranh đặng giành hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ trong cả nước. Máu nóng của các liệt sĩ đã nhuộm lá Quốc kỳ vẻ vang càng thêm thắm đỏ. Tiếng thơm của các liệt sĩ sẽ muôn đời lưu truyền với sử xanh.
Một nén hương thành,
Vài lời an ủi.
Anh linh của các liệt sĩ bất diệt!
Tổ quốc Việt Nam vĩ đại muôn năm!”
Ngày 17/7/1956, Bác gửi thư cho thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ; trong đó, Bác nhắc nhủ đồng bào: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”.
Tại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (3/2/1960), Bác xúc động nói: “Ăn quả phải nhớ người trồng cây. Trong cuộc tưng bừng vui vẻ hôm nay, chúng ta phải nhớ đến những anh hùng, liệt sĩ của Đảng ta, của dân ta. Trong 15 năm đấu tranh trước Cách mạng Tháng Tám và trong tám, chín năm kháng chiến, biết bao đảng viên ưu tú và quần chúng cách mạng đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh một cách cực kỳ oanh liệt. Chỉ riêng trong cấp Trung ương của Đảng đã có 14 đồng chí bị đế quốc Pháp bắn, chém, hoặc đập chết trong nhà tù. Máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do… Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt tất cả mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã chuyển lại cho chúng ta… Việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với đất nước “là một nghĩa vụ của nhân dân”, chứ không phải là “việc làm phúc”.
Khi viết bản “Di chúc” (phần bổ sung), Bác nêu rõ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước về công tác thương binh liệt sỹ: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (...) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.
Bác Hồ hết lòng yêu thương, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với nước; nhưng Bác không quên nhắc nhở thương binh, gia đình liệt sĩ phải luôn luôn thể hiện những phẩm chất tốt đẹp sẵn có, để xứng đáng với sự quan tâm và lòng biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tư tưởng và tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thương binh liệt sỹ thể hiện lòng yêu nước, thương dân sâu sắc của Người. Tư tưởng và tình cảm ấy đã trở thành các chủ trương, chính sách, các chỉ thị của Đảng, Nhà nước đối với thương binh liệt sỹ và những người có công với nước.
Trong những năm gần đây, công tác chính sách đối với thương binh liệt sỹ và những người có công với nước lại càng được quan tâm hơn. Hàng năm, cứ đến Ngày thương binh liệt sỹ hoặc các ngày kỷ niệm chiến thắng, các cấp lãnh đạo cao nhất đều dành thời gian thăm viếng các nghĩa trang liệt sỹ, gia đình thân nhân liệt sỹ, gia đình thương binh, bà mẹ Việt Nam anh hùng… Có thể nói việc đền ơn đáp nghĩa, xuất phát từ tư tưởng và hành động cụ thể của Bác Hồ năm xưa, đã và đang ngày càng được phát huy mạnh mẽ, trở thành một điểm sáng quý báu trong đời sống xã hội của người Việt hôm nay!