Triển lãm bày tranh vẽ riêng của Benjamin Schiller và Phùng Thanh Hà, cũng như tranh vẽ chung của họ. Nhân triển lãm mày, cuốn sách mỹ thuật Hành trình cũng được trình làng.
Nói như họa sĩ Trần Luân Tín: “Vợ chồng Phùng Thanh Hà chưa từng học vẽ. Họ tự do. Khó hay dễ không thành vấn đề. Rốt cuộc họ đã thực hiện được sự hỷ xả nhẹ nhàng trên những tác phẩm hội họa của mình. Và quan trọng hơn, đó là sự truyền cảm trong trẻo cho người thưởng thức. Có thể cảm nhận thấy sự yên tâm trong tâm thức của hai người. Họ không giống nhau nhưng rất hài hòa. Những bức tranh toát lên điều đó.
Phong cách là cái không tìm được ở bên ngoài, cho dù kiến thức rộng rãi đến đâu, bởi vì nó chính là tâm tính của mỗi người. Học hỏi, nghe mình, thích thú với cảm xúc của mình thì có thể vẽ bằng nhiều cách mà vẫn lộ ra cá tính, lộ ra phong cách. Tất nhiên điều này không hề dễ.
Tôi không muốn ghép tác phẩm hội họa vào trường phái này hay trường phái kia. Đấy là công việc của các nhà lý luận. Đẹp và gợi cảm là niềm sung sướng của người xem tranh, cũng là niềm sung sướng của người vẽ tranh. Dường như cặp vợ chồng này vẽ chỉ bằng sự lắng nghe. Ở đâu đó trong thâm tâm mình, ở đâu đó trên mặt sông lờ lững, hay là, đâu đó trong bầu trời mênh mang huyền bí… Vậy là sung sướng, sung sướng của thời khắc sáng tạo”.
Nếu tình cờ gặp Benjamin Schiller (tên thân mật là Beni) ngoài đời, chỉ nhìn thoáng qua, cũng sẽ dễ dàng cảm thấy đây là một nghệ sĩ, dù có thể chưa biết anh thuộc lĩnh vực nào. Nghệ sĩ tính không phải ở cái vẻ bề ngoài cuốn hút, mà là ở ánh mắt, ở cốt cách, là ở việc anh luôn giữ một khoảng cách nhất định với thực tại đời sống hoặc các mối quan hệ, dù bản thân anh cũng thuộc tuýp dễ gần. Dường như anh luôn thắp một ngọn nến ở bên trong, luôn muốn gìn giữ ngọn lửa ấy được cháy miên viễn, nên các vấn đề ngoại giới không còn mấy thu hút anh nữa.
Trước khi chọn Việt Nam sinh sống, đúng hơn, trước khi kết thân với Phùng Thanh Hà vào năm 2013, anh chưa có ý định vẽ tranh, hoặc nếu có ý nghĩ ấy thì cũng chưa đủ cơ duyên để vẽ. Beni chia sẻ, vì bản thân là một người Đức, thường nghĩ đến việc vẽ/sáng tác với những yêu cầu hơi lý tính, hơi trường quy. Chính tình thân với Hà, chính bầu năng lượng mà họ tạo ra nơi sinh sống, chính không khí văn nghệ hơi thiên về cảm tính và cảm tình kiểu Việt Nam, đã thôi thúc hoặc kích hoạt nội sinh của Beni. Một nội sinh nhiều vỉa tầng về đa văn hóa, về địa chính trị, và về sáng tạo.
Chỉ hơn hai năm gần đây, từ một khích lệ của Hà, kiểu “thích thì vẽ cho vui đi, có gì đâu mà lo”, Beni đã tự vẽ rất nhiều tranh. Vẽ dễ dàng như cởi chiếc áo quen thuộc ra khỏi tấm thân, để tắm táp, giặt giũ, phơi nắng và mặc vô lại. Cũng chiếc áo ấy, trong vóc dáng ấy, nhưng đã có những sắc thái khác, năng lượng khác. Chính Beni cũng không biết vì sao mình vẽ được nhiều tranh như vậy và đang vẽ cái gì, dù vẽ rất tuôn chảy, nên khi hỏi anh vẽ gì vậy, Beni thật thà bằng câu tiếng Việt bập bẹ, nhưng khá chính xác: “Trời ơi, tôi không biết đâu”.
Benjamin Schiller chi sẻ: “Tôi không vẽ để kể chuyện. Tôi vẽ vì có những điều không thể diễn tả bằng lời nói. Mỗi nét cọ là một nhịp đập, mỗi màu sắc là một ý nghĩ. Bức tranh có thể rối loạn, thô ráp, đôi khi lộn xộn, nhưng nó sống động. Và chính trong cái vẻ thô ráp ấy, tôi lại tìm kiếm sự sáng tỏ. Tôi không để cảm xúc trôi đi vô định; tôi cố gắng neo giữ chúng lại, trao cho chúng hình hài và cấu trúc, ngay cả khi tất cả dường như bất định.
Không phải quy tắc dẫn dắt tôi, mà là cảm xúc. Nhưng chỉ cảm xúc thôi thì chưa đủ, tôi luôn tìm kiếm khoảnh khắc nơi trực giác gặp gỡ kỷ luật, nơi hỗn loạn tìm thấy trật tự. Chính ở điểm giao thoa đó, những bức tranh của tôi thực sự cất tiếng. Với tôi, hội họa là một cách kết nối. Trước hết là với chính mình, trong sự căng thẳng giữa buông lỏng và kiểm soát, và sau đó có lẽ là với bạn. Khi một bức tranh chạm đến bạn, bạn không chỉ nhìn thấy nó, mà còn cảm nhận được nó. Và trong cảm nhận ấy, có thể chúng ta gặp nhau”.
Giám tuyển Lý Đợi nhận định: “Tranh của Beni chất chứa tinh thần trừu tượng kết hợp (abstract combination), không chỉ ở bút pháp, mà còn ở các vỉa tầng câu chuyện mà anh chuyên chở khá tự nhiên. Ở đó có đức tin và hoài nghi tôn giáo, có định kiến và bao dung, có tự do và ràng buộc, có khuôn mẫu và phá cách, có chính trị và sự thức tỉnh, có dấu ấn hậu phát xít và mong cầu hòa bình… Phía dưới bề mặt trừu tượng chủ đạo ấy, nếu để ý, sẽ có đủ những ký hiệu, những tín hiệu để nhận ra tinh thần nhị nguyên, bao dung như vừa đề cập.
Có thể nhìn việc tự dưng vẽ tranh của Beni ở khía cạnh khám phá mối quan hệ giữa nội sinh với ngoại giới. Từ một nghệ nhân nấu bia theo công thức vài trăm năm của Đức, anh dần rời xa truyền thống này để thay đổi vùng sống, thay đổi công việc, rồi hơn hai năm qua vẽ tranh bên bờ sông Sài Gòn. Sau nhiều năm ở Sài Gòn, Beni đã có suy nghĩ rằng muốn sống đến chết ở đây. Có lẽ từ sự thay đổi truyền thống và cả quan niệm sống đã làm nên nội sinh mới của Beni. Và vẽ chỉ còn là ghi chép hoặc kể lại các biến chuyển nội sinh đó, vì vậy Beni mới nói: “Trời ơi, tôi không biết đâu”.
Còn Phùng Thanh Hà cũng bắt đầu việc vẽ cách đây hơn 2 năm, sau khi tham gia lớp vẽ chuyển hóa của cô Nihato Hằng Nguyễn trong chương trình Thắp lửa Việt Nam ở rừng Nam Cát Tiên. Chị chia sẻ: “Tôi không vẽ để tạo ra một hình ảnh. Tôi vẽ để chạm vào điều không thể gọi tên, để được là chính mình và được sống trọn vẹn trong khoảnh khắc ấy. Với tôi, hội họa không phải là việc tạo ra một tác phẩm. Nó là một trạng thái. Một dòng chảy. Một cách để quay về với chính mình.
Tôi thường bắt đầu bằng sự im lặng. Bằng việc nhìn vào tấm toan trống, có khi nhắm mắt, nghe hơi thở, có khi đặt tay lên mặt tranh như thể đang lắng nghe một cơ thể sống… Tôi không vẽ để diễn đạt điều gì cụ thể. Tôi vẽ để thấy mình. Để giải phóng. Để chảy. Để được sống một cách thô ráp, chân thật, không cần chỉnh sửa…
Mỗi lần vẽ, tôi như bước vào một không gian rất sâu, nơi không còn suy nghĩ, chỉ còn cảm giác, sự khám phá nội tại, kết nối với năng lượng thuần khiết, cho phép bản năng, trực giác được thể hiện… Có những lớp màu bật lên từ ký ức, từ tiềm thức và đôi khi là cả một chuỗi chuyển động cơ thể được lưu giữ lại trên tranh.
Đối diện chính mình… nhìn lại… và đi tiếp. Với tôi vẽ như một pháp duyên.
Tôi từng làm việc trong ngành thời trang gần hai mươi năm. Cũng từng là một người sống rất mạnh trong lý trí. Những năm gần đây tôi tập trung vào yoga, thiền định, chuyển động trị liệu và các phương pháp chữa lành… tôi nhận ra có rất nhiều cách để khám phá bản thân, để hiểu chính mình… và vẽ là cách để giải phóng cảm xúc và chuyển hóa năng lượng một cách thật tuyệt diệu.
Yêu nghệ thuật và cũng quen biết nhiều họa sĩ, từng sưu tầm tranh… nhưng không bao giờ tôi nghĩ mình sẽ vẽ hoặc muốn trở thành họa sĩ, vì với tôi khi chọn điều gì tôi sẽ phải tìm hiểu sâu và làm đến cùng. Nhưng ngay ở bức vẽ thứ 2 tôi đã bị cuốn vào dòng chảy của năng lượng chuyển hóa. Tôi đã để cho cảm xúc tuôn qua 2 bàn tay, toàn bộ cơ thể, dùng tất cả công cụ gì có xung quanh mà chưa từng sử dụng, dùng cọ và bay như nhịp gõ trống… màu không chỉ trải lên toan mà lên cả quần áo và không gian xung quanh… Tôi biết mình sẽ tiếp tục đi trên hành trình vừa khai mở này”.
Vậy là, cả cả Beni và Hà đều vẽ mà không chú ý cụ thể đến việc vẽ, mà vẫn vẽ liên tục, khiến cho việc vẽ khá thoải mái, rộng mở và có thể đi xa được. Nhìn lại hành trình hơn hai năm, xem những tranh gần đây với những tranh lúc ban đầu, có thể thấy rõ điều này.
Nhà văn Nguyễn Viện cảm nhận: “Hội hoạ với Phùng Thanh Hà không phải là một theo đuổi mang tính thẩm mỹ. Mà hội hoạ đã đến với cô ấy như một pháp duyên thực hành trên con đường tu tập. Một trong hai người thầy đầu tiên của Hà đã tặng cô chữ “Ái” như một mật chú cho cuộc đời Hà.
Vì thế, tôi đã không ngạc nhiên khi nhìn ngắm tranh của Hà theo mọi hướng, xoay trái - phải, lật ngược trên - dưới, mỗi chỗ đứng cho ta cảm nhận một tâm cảnh khác. Cũng theo cách đó, tuỳ độ sáng - tối mỗi bức tranh cho ta thấy một hình tướng khác.
Dù nhìn tranh trong thực tế nào, tất cả đều là những chuyển hoá nội tâm. Phùng Thanh Hà không vẽ như một chế tác từ không ra có hay ứng xử tình huống. Mà trong một trạng thái buông lỏng, vô chấp… năng lượng tự thân hiển lộ trên tranh như một hiện thể là thế. Đây là tôi. Có thể đó là những tiền kiếp, cũng có thể là những vọng tưởng chiêm bao của ngã. Dạt dào. Xô đẩy. Bùng vỡ”.
Họa sĩ Ngô Lực thì nhận định: “Tôi gặp chị - một người phụ nữ mang trong mình nhiều tâm sự về cuộc sống. Chị đến với hội họa không phải để chứng minh tài năng hay để khẳng định mình là họa sĩ, mà như một phương pháp trị liệu cho chính tâm hồn. Trên tấm toan, chị thả lỏng, để bàn tay chạy theo những dòng chảy vô thức. Chị không vẽ cái được nhìn thấy bên ngoài, mà vẽ cái được cảm thấy bên trong.
Tranh của chị vì thế là những bản ghi chép thầm lặng của tâm thức - có khi dữ dội, có khi bối rối, có khi mơ hồ, hỗn độn. Với ai tìm cách “hiểu” bức tranh bằng lý trí, có thể sẽ thấy mơ hồ. Nhưng nếu lặng yên đối diện, người xem sẽ thấy được một cánh cửa vào đời sống nội tâm - và đôi khi, nhận ra cả chính mình trong đó. Với chị, nghệ thuật là một công cụ chữa lành, là ngôn ngữ vô ngôn để giao cảm với thế giới.
Bên cạnh chị là Beni - người chồng người Đức, cũng vẽ trừu tượng. Nếu tranh của chị thấm đẫm tính huyền bí Á Đông, thì tranh của anh lại phản chiếu một tư tưởng chặt chẽ, lý trí, mang dấu ấn logic phương Tây. Anh không để cảm xúc trôi đi vô định, mà luôn tìm kiếm trong mơ hồ một sự dứt khoát, một khẳng định. Bút pháp của anh vì thế mang tính xác quyết - như một cái neo để giữ lại giữa biển mù sương.
Hai người – hai tâm thức đối nghịch: một người Á Đông giàu cảm tính, một người châu Âu lý trí; một người hướng đến sự buông lỏng, một người tìm sự khẳng định. Nhưng cũng chính trong đối nghịch đó, họ lại tìm thấy sự đồng điệu. Họ cùng sống, cùng sáng tác, và thậm chí có những bức tranh vẽ chung. Trên cùng một tấm toan, sự mơ hồ và sự minh định hòa quyện, không triệt tiêu nhau mà bổ sung cho nhau - như hai dòng chảy song hành.
Ở những bức tranh chung, ta thấy một nỗ lực hiếm có: sự hòa hợp giữa Đông và Tây, giữa nam và nữ, giữa tiếng nói nội tâm và hình ảnh biểu hiện bên ngoài. Đó là thứ hòa hợp không đến từ việc xóa bỏ khác biệt, mà từ việc để cho khác biệt được song hành và đối thoại.
Trong sự hòa hợp đối nghịch của hai người, ta hiểu rằng hội họa trừu tượng không chỉ là cuộc chơi màu sắc, mà là một hành trình tâm linh và tâm lý. Với chị, vẽ là buông lỏng – để nội tâm tự cất tiếng. Với anh, vẽ là kỷ luật - để lý trí tìm trật tự trong mơ hồ. Và trong sự gặp gỡ ấy, họ tạo nên một minh chứng giản dị mà sâu sắc: nghệ thuật là cây cầu nối những khác biệt, biến đối nghịch thành đối thoại, biến vết nứt thành nơi ánh sáng lọt qua để chữa lành.
Đó chính là thông điệp lớn nhất mà loạt tác phẩm của họ gửi đến người xem - một lời nhắc nhở rằng: chúng ta không cần giống nhau để hòa hợp, chỉ cần dám cùng nhau bước đi trong sự khác biệt”.
Phương Nam (t/h)